Hệ tiết niệu bao gồm thận, niệu quản, bàng quang và niệu đạo, giữ các vai trò khác nhau trong việc đưa chất thải ra khỏi cơ thể. Nhiễm trùng tiết niệu có thể gây đau và khó chịu, có thể trở thành bệnh nặng nếu nhiễm trùng lan tới thận. Phụ nữ có nguy cơ bị nhiễm trùng tiết niệu cao nhất. Các dạng nhiễm trùng tiết niệu khác nhau có tên gọi khác nhau, tuỳ thuộc vào phần của đường tiết niệu bị bệnh, bao gồm: viêm thận bể thận, đây là nhiễm trùng ở thận, xảy ra khi nhiễm khuẩn lan từ bàng quang tới thận và niệu quản; viêm bàng quang; viêm niệu đạo.
Mót tiểu, tiểu rát, đái rắt, nước tiểu có lẫn máu, vẩn đục hoặc có mùi hôi. Các triệu chứng khác bao gồm: nhiễm trùng thận gây đau mạn sườn, sốt cao, rét run, buồn nôn hoặc nôn; viêm bàng quang gây tức vùng bụng dưới và nước tiểu hôi; viêm niệu đạo dẫn đến nước tiểu có mủ, ở nam giới, viêm niệu đạo có thể gây chảy mủ ở dương vật.
Các thuốc hay được khuyên dùng nhất để điều trị nhiễm trùng tiết niệu bao gồm
Thông thường, các triệu chứng nhiễm trùng tiết niệu sẽ hết trong một vài ngày điều trị, nhưng bệnh nhân sẽ phải dùng kháng sinh trong 1 tuần hoặc hơn.
Nhiễm trùng tiết niệu nặng có thể phải nhập viện và điều trị bằng kháng sinh tiêm tĩnh mạch. Khi tái phát xảy ra thường xuyên hoặc nhiễm khuẩn thận trở nên mãn tính, cần khám tiết niệu vì có thể phải điều trị tổn thương thực thể gây ra bệnh.
Hệ tiết niệu bao gồm thận, niệu quản, bàng quang và niệu đạo. Tất cả đóng vai trò khác nhau trong việc đưa chất thải ra khỏi cơ thể. Thận gồm hai quả có hình hạt đậu nằm ở ổ bụng sau trên, lọc các chất thải từ máu. Các ống niệu quản đưa nước tiểu từ thận xuống bàng quang, ở đây nước tiểu được giữ lại cho đến khi bị tống ra khỏi cơ thể qua niệu đạo. Tất cả các thành phần này đều có thể bị nhiễm trùng, nhưng đa số nhiễm trùng là ở đường tiết niệu dưới - niệu đạo và bàng quang.
Thuật ngữ nhiễm trùng tiết niệu mô tả nhiễm trùng bắt đầu trong hệ tiết niệu. Nhiễm trùng tiết niệu có thể gây đau và khó chịu. Chúng cũng có thể trở thành bệnh nặng nếu nhiễm trùng lan tới thận.
Phụ nữ có nguy cơ bị nhiễm trùng tiết niệu cao nhất. Trên thực tế, 1/5 số phụ nữ một lúc nào đó sẽ bị bệnh này và đa số sẽ bị không chỉ một lần. Phụ nữ trẻ, cũng như nam giới, cũng có nguy cơ bị nhiễm trùng tiết niệu.
Các dạng nhiễm trùng tiết niệu khác nhau có tên gọi khác nhau, tuỳ thuộc vào phần của đường tiết niệu bị bệnh, bao gồm:
Các thuốc hay được khuyên dùng nhất để điều trị nhiễm trùng tiết niệu bao gồm
Hãy nói cho bác sĩ biết về các thuốc khác mà bạn đang dùng hoặc những dị ứng mà bạn từng bị. Điều này sẽ giúp bác sĩ lựa chọn cách điều trị tốt nhất.
Thông thường, các triệu chứng nhiễm trùng tiết niệu sẽ hết trong một vài ngày điều trị, nhưng bạn sẽ phải dùng kháng sinh trong 1 tuần hoặc hơn. Hãy dùng đủ liều kháng sinh theo chỉ dẫn của bác sĩ để đảm bảo rằng nhiễm khuẩn được loại trừ hoàn toàn.
Đối với nhiễm trùng tiết niệu không biến chứng xảy ra khi bạn khoẻ mạnh, bác sĩ có thể đề nghị liệu trình điều trị ngắn ngày hơn, như dùng kháng sinh trong 3 ngày, tuy nhiên liệu trình ngắn ngày có hiệu quả hay không còn phụ thuộc vào những triệu chứng và tiền sử bệnh tật riêng của bạn.
Nếu bạn bị nhiễm trùng tiết niệu tái phát, bác sĩ có thể đề nghị liệu trình kháng sinh dài hơn hoặc là chuyển bạn đến chuyên khoa tiết niệu hoặc khoa thận để đánh giá xem liệu những bất thường của đường tiết niệu có phải là nguyên nhân gây bệnh không. Đối với phụ nữ, uống một liều kháng sinh duy nhất sau khi sinh hoạt tình dục có thể có ích.
Theo một nghiên cứu đăng trên tạp chí New England Journal of Medicine ngày 4 tháng 10 năm 2001, nhiễm trùng tiết niệu khó điều trị ở phụ nữ có thể do một chủng E.coli mới kháng kháng sinh. Chủng vi khuẩn này có thể kháng các kháng sinh thường dùng để điều trị viêm bàng quang. Vì vậy, cần có các loại kháng sinh khác nhau và các biện pháp điều trị thay thế.
Nhiễm trùng tiết niệu nặng có thể phải nhập viện và điều trị bằng kháng sinh tiêm tĩnh mạch. Khi tái phát xảy ra thường xuyên hoặc nhiễm khuẩn thận trở nên mạn tính, cần khám tiết niệu vì có thể phải điều trị tổn thương thực thể gây ra bệnh.